Tuổi trẻ Nam Trà My - Huyện đoàn, Hội liên hiệp thanh niên, Hội đồng đội huyện Nam Trà My

http://tuoitrenamtramy.vn


Tài liệu sinh hoạt chi đoàn tháng 6/2022

Trên 51 năm nghiên cứu và kể chuyện về Bác, GS.TS Hoàng Chí Bảo tâm sự, học đạo đức của Bác không phải nói điều cao xa mà thực hành từ đức tính giản dị nhất. Sự giản dị, tinh tế chỉ có được bởi trí tuệ và tâm hồn vĩ đại mênh mông của Bác. Càng tiếp cận, nghiên cứu về Bác, ông càng thấm thía về điều này. Sự giản dị là tột cùng của sự sâu sắc và vĩ đại - đó cũng là bản lĩnh Hồ Chí Minh. “Không ai chống nổi ông vì niềm tin mãnh liệt”
Tài liệu sinh hoạt chi đoàn tháng 6/2021

Tài liệu sinh hoạt chi đoàn tháng 6/2021

1. Những mẩu chuyện về Bác và bài học từ Bác
"SỰ GIẢN DỊ LÀ TỘT CÙNG CỦA SỰ SÂU SẮC VÀ VĨ ĐẠI!"
Trên 51 năm nghiên cứu và kể chuyện về Bác, GS.TS Hoàng Chí Bảo tâm sự, học đạo đức của Bác không phải nói điều cao xa mà thực hành từ đức tính giản dị nhất.
Sự giản dị, tinh tế chỉ có được bởi trí tuệ và tâm hồn vĩ đại mênh mông của Bác. Càng tiếp cận, nghiên cứu về Bác, ông càng thấm thía về điều này. Sự giản dị là tột cùng của sự sâu sắc và vĩ đại - đó cũng là bản lĩnh Hồ Chí Minh.
“Không ai chống nổi ông vì niềm tin mãnh liệt”
Từ lúc thiếu niên cho đến khi về với cõi người hiền, Bác Hồ đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng. Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lược, người dân làm nô lệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ một người yêu nước đã trở thành người cộng sản. Trong quá trình tìm đường cứu nước, Bác đã đi đến nhiều nơi ở các châu lục trên thế giới, làm nhiều nghề lao động khác nhau vừa để kiếm sống, vừa hoạt động. Với tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, Bác luôn có hoài bão Tổ quốc được giải phóng, nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Chính vì vậy, Người chỉ có một ham muốn, “ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
Năm 1946, phát biểu tại cuộc mít tinh của nhân dân Hà Nội tiễn Người đi thăm nước Pháp tổ chức ở Việt Nam học xá, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào trốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo, là vì mục đích đó. Bất kì ở đâu, bất kì lúc nào, tôi cũng chỉ có một tâm nguyện: làm cho ích quốc, lợi dân”... Trong giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (Bộ Giáo dục và Đào tạo phát hành năm 2014) đánh giá: “Cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh là một chuỗi những năm tháng vô cùng gian khổ. Hai lần ngồi tù, một lần bị tuyên án tử hình, có giai đoạn hoạt động sôi nổi, được đánh giá rất cao, có giai đoạn bị hiểu lầm, nghi kị, không được giao nhiệm vụ… Song nhờ ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, Hồ Chí Minh đã bình tĩnh, kiên cường, chủ động vượt qua thử thách, gian nguy, kiên trì mục đích sống, bảo vệ chân lí, giữ vững quan điểm cách mạng của mình”.
Trong cuốn Kể chuyện Bác Hồ - Tổng hợp 20 mẩu chuyện hay và ý nghĩa nhất về Bác (Nguồn: Internet), bà Nguyễn Thị Liên, nguyên cán bộ Văn phòng Phủ Chủ tịch, kể lại rằng: Khi làm việc ở văn phòng Bác, đôi khi bà còn đảm nhận việc khâu, vá quần áo, chăn, màn, áo gối cho Bác. Công việc này giúp bà có điều kiện được gần Bác và học tập được rất nhiều. Áo Bác rách, có khi vá đi vá lại Bác mới cho thay. Chiếc áo gối màu xanh hoà bình của Bác, được ông Cần (người phục vụ Bác) đưa bà vá đi vá lại. Cầm chiếc áo gối của Bác, bà rưng rưng nước mắt, bà nói với ông Cần thay áo gối khác cho Bác dùng nhưng Bác chưa đồng ý. Người vẫn dùng chiếc áo gối vá.
Ở Việt Bắc, có một buổi Bác đi công tác về muộn, về qua văn phòng, Bác nghỉ lại một lát vì mệt. Đồng chí Hoàng Hữu Kháng, bảo vệ của Bác nói với bà:
- Bác mệt không ăn được cơm. Cô nấu cho Bác bát cháo.
Bác đang nằm nghỉ nghe thấy thế liền bảo bà:
- Cô nấu cháo cho Bác bằng cơm nguội ấy, vừa chóng chín, vừa tiết kiệm được gạo, khỏi bỏ phí cơm thừa…
Vậy đó, vị Cha già dân tộc trong lúc đất nước còn lâm nguy, thiếu đói, nhất định tiết kiệm từng hạt gạo, manh gối… GS Hoàng Chí Bảo chia sẻ: Sinh thời, Bác là một người tiết kiệm đến mức khắc khổ để nêu gương. Cuộc sống thường ngày của Bác, từ bữa ăn, quần áo mặc đến đôi dép cao su, bây giờ đã trở thành huyền thoại. Chính vì những phẩm chất cao quý đó mà Bác có bản lĩnh đứng ngoài vòng danh lợi. Cả đời không màng danh lợi, chỉ vì dân, vì nước.
Thậm chí, khi đến đâu Người cũng thường không ăn, ngủ lại ở nhà khách và từ chối mọi cuộc chiêu đãi dù to hay nhỏ vì theo Người: “Đi công tác thì cốt công việc, nên tránh phiền hà cho địa phương và lãng phí tiền của của nhân dân”.
Do đó, nếu đi trong ngày thì Bác nhắc bộ phận giúp việc chuẩn bị cơm và thức ăn mang theo. Nếu đi từ 2 ngày trở lên thì chuẩn bị gạo, thức ăn và có người đi để nấu. Cơm và thức ăn mang theo cũng rất đơn giản, thậm chí có khi là cơm nắm hoặc xôi với một hoặc hai món mặn hợp với khẩu vị của Bác…
Nói về Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Ấn Độ Nê-Ru từng nhận xét: “Xét theo bất cứ tiêu chuẩn nào, Người cũng là nhân vật nổi bật nhất trong thời đại chúng ta”. Nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Nikita Khơ-rút-xốp, trong hồi kí của mình đã coi Hồ Chí Minh là “Vị thánh cách mạng, vị thánh của Chủ nghĩa cộng sản”. Ông giải thích: “Trong cuộc đời hoạt động chính trị của mình, tôi đã biết rất nhiều người, nhưng không có người nào gây được ở tôi một ấn tượng đặc biệt như Hồ Chí Minh. Không ai có thể chống lại nổi ông vì niềm tin của ông mãnh liệt, tin ở Nhân dân mình và tất cả các dân tộc cũng như ở sự nghiệp cao cả”.
Nguồn: Báo Pháp luật Việt Nam.
“NGÀY NÀY 29-5-1956, HỒ CHỦ TỊCH ĐÃ NÓI CHUYỆN
 TẠI HỘI NGHỊ CÁN BỘ LÀM CÔNG TÁC SỬA SAI
 TRONG CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT Ở NGOẠI THÀNH HÀ NỘI”
Người nói:
“Tôi thay mặt trung ương Đảng và Chính phủ khen ngợi cán bộ và Nhân dân các xã ngoại thành Hà Nội đã làm công tác bước hai đạt kết quả khá. Vừa làm tốt việc sửa sai, ngoại thành Hà Nội cần đẩy mạnh thi đua sản xuất thực hành tiết kiệm, ra sức củng cố các tổ chức quần chúng và thi đua làm nghĩa vụ lương thực cho Nhà nước.
Để làm tốt những nhiệm vụ trên, các cán bộ sửa sai phải gương mẫu, tránh bao biện làm thay, cán bộ địa phương thì phải cố gằng học tập, không nên ỷ lại vào cán bộ sửa sai”.
2. Hành trình chủ tịch Hồ Chí Minh ra nước ngoài tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc
Cách đây 111 năm (05/6/1911 – 05/6/2022), trên con tàu Đô đốc Latouche-Tréville, từ Bến cảng Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước. Theo hành trình của tàu, Nguyễn Tất Thành đã dừng chân ở cảng Marseille, cảng Le Havre của Pháp. Những ngày đầu tiên trên đất Pháp, được chứng kiến ở Pháp cũng có những người nghèo như ở Việt Nam, Người nhận thấy có những người Pháp trên đất Pháp tốt và lịch sự hơn những tên thực dân Pháp ở Đông Dương.
Về mục đích ra đi của mình, năm 1923, Người đã trả lời một nhà báo Nga rằng: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp “Tự do, bình đẳng, bác ái”. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thuở ấy tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy”(1). Một lần khác trả lời một nhà văn Mỹ, Người nói: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”(2).
Để tiếp tục thực hiện mục đích đó, năm 1912, Nguyễn Tất Thành làm thuê cho một chiếc tàu của hãng Chargeurs Réunis đi vòng quanh châu Phi, đã có dịp dừng lại ở những bến cảng của một số nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha… Đến đâu, Người cũng thấy cảnh khổ cực của người lao động dưới sự áp bức bóc lột dã man, vô nhân đạo của bọn thống trị. Một trong những cảnh ấy Người đã trông thấy ở Dacar: “Đến Dacar, bể nổi sóng rất dữ. Tàu không thể vào bờ. Cũng không thể thả ca nô xuống vì sóng rất to. Để liên lạc với tàu, bọn Pháp trên bờ bắt những người da đen phải bơi ra chiếc tàu. Một, hai, ba, bốn người da đen nhảy xuống nước. Người này đến người kia, họ bị sóng bể cuốn đi”(3). Cảnh tượng đó làm cho Nguyễn Tất Thành rất đau xót. Người liên tưởng một cách tự nhiên đến số phận của người dân Việt Nam, đồng bào khốn khổ của mình. Họ cũng là nạn nhân của sự hung ác, vô nhân đạo của bọn thực dân. Những sự việc như vậy diễn ra khắp nơi trên đường Người đi qua, tạo nên ở Người mới đồng cảm sâu sắc với số phận chung của nhân dân các nước thuộc địa.
Nguyễn Tất Thành theo con tàu tiếp tục đi qua Martinique (Trung Mỹ), Uruguay và Argentina (Nam Mỹ) và dừng lại ở nước Mỹ cuối năm 1912. Tại đây, Người có dịp tìm hiểu cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Mỹ với bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng trong lịch sử. Người vừa đi làm thuê để kiếm sống vừa tìm hiểu đời sống của những người lao động Mỹ. Người đã đến thăm quận Brooklyn của thành phố New York. Người đi xe điện ngầm đến khu Harlem để tìm hiểu đời sống và cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc của những người da đen. Ở nước Mỹ không lâu nhưng Nguyễn Tất Thành đã sớm nhận ra bộ mặt thật của đế quốc Hoa Kỳ. Đằng sau khẩu hiệu “Cộng hòa dân chủ” của giai cấp tư sản Mỹ là những thủ đoạn bóc lột rất tàn bạo. Người cảm thông sâu sắc với đời sống của người dân lao động da đen và rất căm giận những kẻ phân biệt chủng tộc, hành hình người da đen một cách man rợ, mà sau này Người đã viết lại trong bài báo Hành hình kiểu Linsơ (Lynch).
Đầu năm 1913, Nguyễn Tất Thành theo tàu rời Mỹ trở về Le Havre, sau đó sang Anh. Đến nước Anh, để kiếm tiền sinh sống, Người nhận cào tuyết cho một trường học, rồi làm thợ đốt lò. Công việc hết sức nặng nhọc, nhưng Người đã tranh thủ học tiếng Anh, Nguyễn Tất Thành gửi thư liên hệ với cụ Phan Châu Trinh, lúc này đang ở Pháp, thông báo tình hình sinh hoạt, học tập của mình, hỏi thăm tình hình người thân của cụ Phan. Trong thư Nguyễn Tất Thành cũng bày tỏ và thăm dò ý kiến của cụ Phan về tình hình thời cuộc. Cuối năm 1913, Nguyễn Tất Thành đến làm thuê ở khách sạn Drayton Court, phía tây London. Một thời gian sau, Nguyễn Tất Thành lại chuyển sang làm phụ bếp ở khách sạn Carlton-một khách sạn hạng sang nổi tiếng ở London. Nguyễn Tất Thành làm việc dưới sự điều khiển của vua bếp Escophier, một người Pháp có tư tưởng tiến bộ. Nguyễn Tất Thành được giao nhiệm vụ thu dọn và rửa bát, đĩa, nồi, chảo,... Những người giàu có khi ăn uống rất lãng phí, bỏ thừa khá nhiều, có khi cả một phần tư con gà. Người gói lại những miếng ngon đưa cho nhà bếp. Ông Escophier chú ý tới việc làm đó và hỏi: “Tại sao anh không quẳng thức ăn thừa vào thùng như những người kia?
- Không nên vứt đi. Ông có thể cho người nghèo những thứ ấy.
- Ông bạn trẻ của tôi ơi, anh nghe tôi. Ông Escophier vừa nói vừa cười và có vẻ bằng lòng. Tạm thời anh hãy gác ý nghĩ cách mạng của anh lại một bên, và tôi sẽ dạy cho anh cách làm bếp, làm ngon anh sẽ được nhiều tiền. Anh bằng lòng chứ?”(4). Từ đó, ông chuyển Nguyễn Tất Thành vào chỗ làm bánh với mức lương cao hơn.
Tại Anh, Nguyễn Tất Thành đã hăng hái tham dự những cuộc diễn thuyết ngoài trời của nhiều nhà chính trị và triết học, tham gia Hội những người lao động hải ngoại, ủng hộ cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân Airơlen. Cũng trong thời gian này, Người được đọc một tờ báo Anh đưa tin về ông Terence Mac Swiney, Thị trưởng thành phố (Cork-Coóc), nhà đại ái quốc Airơlen, đấu tranh chống đế quốc Anh, bị bắt. Trong tù ông đã tuyệt thực. Ông nằm nghiêng một phía, không ăn, không cử động hơn 40 ngày và hy sinh. Hàng ngàn người Airơlen lưu vong nối nhau thành hàng dài trên đường phố London đưa tiễn ông Mac Swiney về yên nghỉ tại Cork. Nguyễn Tất Thành hết sức xúc động và cảm phục tinh thần bất khuất của ông: “Can đảm biết bao! Dũng cảm biết bao! Một dân tộc có những người như ông Coóc sẽ không bao giờ đầu hàng”(5).
Cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ Anh trở lại Pháp để có điều kiện trực tiếp hoạt động trong phong trào Việt kiều và phong trào công nhân Pháp, lúc đầu Nguyễn Tất Thành ở phố Charonne trong một thời gian ngắn; từ ngày 7 đến 11/6/1919 ở nhà số 10, phố Stokholm; ngày 12/6/1919, chuyển đến ở nhà số 56 phố Monsieur le Prince; tháng 7/1919, ở nhà số 6, phố Villa des Gobelins, quận 13; ngày 14/7/1921, chuyển đến ở nhà số 12, phố Buyô. Trong tháng 7/1921, Nguyễn Tất Thành chuyển đến nhà số 9, ngõ Compoint, quận 17, một trong những khu lao động nghèo nhất của Thủ đô nước Pháp. Ngày 14/3/1923, Người đến ở nhà số 3, phố Marché des Patriarches.
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp - “tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: “Tự do, bình đẳng, bác ái”. Thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp, Nguyễn Tất Thành cùng Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường thảo ra bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Versailles. Dưới bản Yêu sách Nguyễn Tất Thành ký tên Nguyễn Ái Quốc. Bản Yêu sách gồm tám điểm: “1. Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị; 2; 3; 4; 5; 6; 7; 8. Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do người bản xứ bầu ra, tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ”(6).
Thực dân Pháp bắt đầu chú ý tới người có tên Nguyễn Ái Quốc. Trong một lần đến theo dõi buổi nói chuyện ở Hội trường Hooctiquyntơ tại Paris, viên mật thám Pháp Paul Arnoux chuyên theo dõi người Việt Nam sống ở Paris, tận mắt chứng kiến Nguyễn Ái Quốc đang phân phát truyền đơn in bản Yêu sách cho những người có mặt, đã phải thốt lên dự cảm: “Con người thanh niên mảnh khảnh và đầy sức sống này có thể là người sẽ đặt chữ thập cáo chung lên nền thống trị của chúng ta ở Đông Dương”(7).
Qua việc bản Yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy, như sau này Người đã viết: “Chủ nghĩa Wilson chỉ là một trò bịp bợm lớn” và “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”(9).
Cách mạng tháng mười nga thành công, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ. Quốc tế cộng sản đã kiên quyết ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương đông. Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của lênin được đại hội lần thứ hai quốc tế cộng sản họp năm 1920 thông qua, đã vạch ra đường lối cơ bản cho phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Luận cương của lênin đã chỉ cho nguyễn ái quốc con đường giành độc lập cho dân tộc và tự do cho đồng bào. Sau này, khi kể lại sự kiện quan trọng đó, người nói: “luận cương của lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”! Từ đó, tôi hoàn toàn tin theo lênin, tin theo quốc tế thứ ba”(10). Từ bản luận cương của lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy phương hướng và đường lối cơ bản của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, trong đó có cách mạng việt nam. Niềm tin ấy là cơ sở tư tưởng để nguyễn ái quốc vững bước đi theo con đường cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác-lênin.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp họp từ ngày 25 đến ngày 30-12-1920, tại thành phố Tours (Pháp), Nguyễn Ái Quốc tham dự với tư cách là đại biểu chính thức và được mời phát biểu. Bằng những sự thật, Nguyễn Ái Quốc tố cáo những sự tàn bạo mà bọn thực dân Pháp đã gây ra ở Đông Dương, và cho rằng: “Đảng Xã hội cần phải hoạt động một cách thiết thực để ủng hộ những người bản xứ bị áp bức”, rằng “Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa… đánh giá đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa…”. Nguyễn Ái Quốc kết thúc bài phát biểu bằng lời kêu gọi thống thiết: “Nhân danh toàn thể loài người, nhân danh tất cả các đảng viên xã hội, cả phái hữu lẫn phái tả, chúng tôi kêu gọi: Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi!” (11).
Tại đại hội lịch sử này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành tham gia Quốc tế III Quốc tế Cộng sản, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, và Người cũng trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đó là một sự kiện chính trị vô cùng quan trọng trong đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và trong lịch sử cách mạng nước ta. Nếu như cuộc đấu tranh của Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị Versailles năm 1919 mới là phát pháo hiệu thức tỉnh nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh chống thực dân Pháp, thì việc Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920 đã đánh dấu một bước chuyển biến quyết định, bước nhảy vọt, thay đổi về chất trong nhận thức tư tưởng và lập trường chính trị của Người: Từ chủ nghĩa yêu nước đến với Chủ nghĩa Lênin. 40 năm sau nhìn lại sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Cá nhân tôi, từ lúc đầu nhờ được học tập truyền thống cách mạng oanh liệt và được rèn luyện trong thực tế đấu tranh anh dũng của công nhân và của Đảng Cộng sản Pháp, mà tôi đã tìm thấy chân lý của Chủ nghĩa Mác – Lênin, đã từ một người yêu nước tiến bộ thành một chiến sĩ xã hội chủ nghĩa” (12).
Việc Nguyễn Ái Quốc tiếp thu Chủ nghĩa Mác – Lênin đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với Chủ nghĩa Mác – Lênin và sau đó ra sức truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam đã thúc đẩy các phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, cách mạng Việt Nam phát triển đúng hướng.
 NGUYỄN VĂN CÔNG
 (Giám đốc Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch) - Báo QĐND
(1) Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, HN. 2000, tập 1, tr.477.
(2) Báo Nhân Dân, số: 4062, ngày 18-5-1965.
(3) Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1975, tr.23.
(4) Sđd, tr.29.
(5) Sđd, tr.29.
(6) Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, HN. 2000, tập 1, tr.435-436.
(7) Hồng Hà: Thời thanh niên của Bác Hồ, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1976, tr.81.
(8) Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, HN. 2000, tập 1, tr. 416.
(9) Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1975, tr.33.
(10) Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, HN. 2000, tập.10, tr. 127.
(11) Sđd, tập 1, tr. 23-24.
(12) Sđd, tập 10, tr.241.

Tác giả bài viết: Huyện đoàn Nam Trà My

Nguồn tin: Huyện đoàn Nam Trà My:

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây