1. Hành trình ra đi tìm đường cứu nước. Ngày 2 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành đến Cảng Nhà Rồng xin làm việc ở tàu Đô đốc Latusơ Tơrêvin của hãng vận tải Hợp nhất (Compagnie des Chargeurs réunis). Ngày 3 tháng 6 năm 1911, anh được giới thiệu và nhận vào làm phụ bếp trên tàu Đô đốc Latusơ Tơrêvin, nhận thẻ nhân viên của tàu với tên mới là Văn Ba. Ngày 05 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, với tên Văn Ba trong công việc là người phụ bếp chính thức lên đường sang Pháp. Không khoác áo thân sĩ, ra đi trong tư cách một người lao động, với đôi bàn tay trắng, nhưng lại có một ý chí mãnh liệt, một nghị lực phi thường, một mình với cuộc hành trình 30 năm đi tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. 2. Bước chuyển từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác- Lê nin. Từ bến cảng Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành đã đi qua Singapore, Colombo, vượt Hồng hải, qua Suez Pháp. Vòng quanh châu Âu, châu Phi, châu Mỹ, châu Á, qua các nước Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Algerie, Tunisie, cửa biển Đông Phi, qua Cong go, Dahomey, Guinée, Sénégal, vượt Đại Tây dương đến Hoa Kỳ, xuống Nam Mỹ, tới Arhentina… Tiếp đó, trở lại Anh, đến Pháp qua Đức, tới Liên xô, Trung Quốc, sang Thái Lan… tất cả hành trình hơn 30 nước. Là người dân thuộc địa, ra nước ngoài hòa mình vào cuộc sống lao động và đấu tranh của vô sản ở chính quốc, có gần 10 năm bôn ba khảo sát thuộc địa của đế quốc Anh, Pháp, Đức nên Người hiểu biết về bản chất chung và màu sắc riêng của mỗi nước đế quốc. Nhờ vốn hiểu biết thực tế đó, cùng với tư duy độc lập, tự chủ, đã giúp Người không rơi vào các khuynh hướng cơ hội, nhưng cũng không đễ dàng chấp nhận một cách giáo điều, những công thức lý luận không phù hợp với thực tế các nước thuộc địa, nhất là các nước phương Đông. Cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ Anh trở lại Pháp vào lúc cuộc cách mạng tháng Mười Nga nổ ra và giành được thắng lợi, mở ra cho con đường giải phóng dân tộc, giành độc lập cho loài người. Nǎm 1919 tại Hội nghị hòa bình Véc-xây (Versailles) Pháp, thay mặt những người Việt Nam yêu nước, dưới ký tên Nguyễn Ái Quốc (tên mới của Nguyễn Tất Thành) đã gửi “Bản Yêu sách Tám điểm” đòi quyền bình đẳng về pháp lý và quyền tự do, dân chủ tối thiểu cho Nhân dân Việt Nam. Cuối năm 1919, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng duy nhất ở Pháp, tỏ ý quan tâm đến số phận các dân tộc thuộc địa và trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Tháng 7 nǎm 1920 qua báo Nhân đạo (L'Humanité- Pháp), Nguyễn Ái Quốc đọc được tác phẩm “Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I Lê nin. Nhờ đó, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy ánh sáng cho con đường giải phóng dân tộc mình trong sự nghiệp giải phóng tất cả các dân tộc bị áp bức. Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III). Đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc: từ chủ nghã yêu nước đến chủ nghĩa Mác-Lênin, từ người yêu nước thành người cộng sản. 3. Quá trình hoạt động thực tiễn, lý luận, cụ thể hóa và vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn các dân tộc. Trong quá trình tìm đường cứu nước Nguyễn Ái Quốc đã đi qua các châu lục, khảo sát nhiều nước thuộc địa và những nước tư bản thời bấy giờ. Người đã tham gia nhiều hoạt động thực tiễn và lý luận rất sôi nổi như: tham gia Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp, tham gia sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa, viết bài và tham gia xuất bản báo (tờ Le Paria), viết bài tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê nin về Việt Nam và các nước thuộc địa. Người đã tiếp xúc nhiều nhà tư tưởng nhưng tất cả chưa mang lại lời giải cho cách mạng Việt Nam, chỉ có Lê nin và Quốc tế III là ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, giải phóng thuộc địa, nên trong tác phẩm Đường Kách mệnh Người chỉ rõ: bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác-Lê nin. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh khẳng định cách mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam phải đi theo con đường cách mạng Nga, tức là phải đặt nó trong quỹ đạo cách mạng vô sản. Con đường cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: dân tộc cách mệnh và thế giới cách mệnh. Đường Kách mệnh đã đặt cơ sở cho sự hình thành đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc của cách mạng Việt nam theo đường lối cách mạng vô sản; đánh dấu sự chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước từ cuối thế kỷ XIX cho đến những năm 20 của thế kỷ XX. Chính cương, Sách lượt vắn tắt và các văn kiện hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, do Nguyễn Ái Quốc thảo ra, đã đánh dấu sự hình thành cơ bản tư tưởng của Người về con đường cách mạng Việt Nam, trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, nguồn gốc tạo nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. 4. Trở về Tổ quốc lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành công mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc Việt Nam. Sau khi tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc đúng đắn, ngày 28/01/1941, Nguyễn Ái Quốc đã vượt qua biên giới Việt - Trung, đặt chân lên mãnh đất địa đầu Tổ quốc. Người chủ trì Hội nghị Trung ương 8 (5/1941) Đảng ta chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp. Hội nghị chỉ rõ “sau khi đánh đuổi được Pháp - Nhật sẽ thành lập một nước Việt Nam dân chủ mới...”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã làm nên cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công. Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Người đã long trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Dân tộc Việt Nam từ thân phận nô lệ đã vươn lên làm chủ vận mệnh của mình. 5. Ý nghĩa lịch sử và giá trị thời đại của Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước. Ra đi tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác- Lênin, Người đã đặt nền móng cho lý luận cách mạng Việt Nam trong thời đại mới: Chấm dứt khủng hoảng về đường lối cứu nước. Tìm thấy đường lối phát triển đúng đắn cho dân tộc, phù hợp với tiến bộ của nhân loại và xu thế của thời đại. Hồ chí Minh đã đem ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin soi đường cho phong trào yêu nước, chủ nghĩa yêu nước truyền thống của Việt Nam vươn lên tầm thời đại. Trở thành biểu tượng sáng ngời trong hai cuộc kháng chiến lừng lẫy của dân tộc chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, trong công cuộc kiến thiết và phát triển đất nước theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Quá trình ra đi tìm đường cứu nước đã hình thành chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh: Đó là sự tổng hòa của tư tưởng yêu nước Việt Nam chân chính; truyền thống, tinh hoa văn hóa dân tộc ta với hệ tư tưởng tiên tiến giai cấp công nhân mà chủ nghĩa Mác - Lênin là đại diện cốt yếu là tự do cho đồng bào, độc lập cho Tổ quốc. Tìm ra con đường cứu nước chính là nguồn cội, nền tảng đem lại những thành tựu vĩ đại trong lịch sử dân tộc ta: Hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945; Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu năm 1954; Chiến thắng 30/4/1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất Tổ quốc, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của công cuộc 35 năm đổi mới, đất nước ta chưa bao giờ có một “cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế” như ngày hôm nay. Hướng đến kỷ niệm 110 năm (05/6/1911- 05/6/2021), ngày ra đi tìm đường cứu nước của Người thanh niên Nguyễn Tất Thành, từ chuyến đi lịch sử Người đã tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam. Dù Người đã đi xa, nhưng Đảng ta, dân tộc ta nguyện sẽ mãi mãi học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người, xây dựng thành công Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./. |
Ý kiến bạn đọc